1. Giới thiệu chung về Cộng đồng ASEAN
Quyết định xây dựng Cộng đồng ASEAN được các Nhà Lãnh
đạo thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN 9 (Bali, In-đô-nê-xi-a, tháng
10/2003) với 3 trụ cột : Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh
tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Một năm sau
đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-10 (Viên chăn, Lào, tháng 11/2004), các
nước ASEAN đã thông qua các Kế hoạch hành động xây dựng 3 trụ cột Cộng
đồng ASEAN nói trên, cùng với Chương trình hành động Viêng Chăn (VAP)
bao gồm các hoạt động cụ thể nhằm hiện thực hóa mục tiêu này.
Mục đích của Cộng đồng An ninh ASEAN (sau này đổi tên
thành Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC)) nhằm duy trì và tăng
cường an ninh, hòa bình và ổn định, tăng khả năng của ASEAN tự bảo đảm
an ninh khu vực. Hợp tác trong khuôn khổ APSC bao gồm hợp tác kiến tạo
một nền an ninh toàn diện ở khu vực, ứng phó với các thách thức phi
truyền thống, như tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ứng phó thiên tai
khẩn cấp và hợp tác về an ninh hàng hải... ASEAN khẳng định không hướng
tới hình thành liên minh quân sự ở khu vực, hoặc một khối phòng thủ
chung; các nước thành viên có quyền tự do theo đuổi chính sách đối ngoại
riêng cũng như bố trí phòng thủ riêng của mình.
Sứ mệnh của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm tạo
dựng: i) Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất; ii) Một khu
vực có sức cạnh tranh, iii) Phát triển đồng đều iv) Hội nhập vào nền
kinh tế toàn cầu. Để đưa ASEAN trở thành một thị trường chung và cơ sở
sản xuất thống nhất, AEC tập trung vào các biện pháp tạo thuận lợi hóa
và tự do lưu chuyển thương mại, đầu tư, dịch vụ, lao động tay nghề cao,
và sự di chuyển tự do hơn của các dòng vốn. AEC, tuy vậy, không có kế
hoạch xây dựng một liên minh tiền tệ sử dụng đồng tiền chung như Liên
minh châu Âu (EU).
Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) nhằm gắn bó
chặt chẽ các nước Đông Nam Á trong một cộng đồng gắn kết, phát triển
đồng đều, hòa hợp, với các “xã hội quan tâm và chia sẻ”. Cộng đồng văn
hóa xã hội có 4 thành tố: (1) Xây dựng cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn
nhau; (2) Điều tiết những ảnh hưởng về mặt xã hội của các liên kết kinh
tế; (3) Đảm bảo tính bền vững của môi trường (4) Tăng cường nền tảng gắn
kết xã hội của khu vực.
Đề ra mục tiêu lớn nhưng Cộng đồng ASEAN không đưa
ASEAN trở thành một tổ chức siêu quốc gia, mà thay vào đó, sẽ đẩy mạnh
hơn nữa mức độ hợp tác và liên kết khu vực, đem lại những tác động sâu
rộng và có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của người dân các nước ở
khu vực Đông Nam Á.
2. Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC)
Trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II),
thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-9 (Bali, In-đô-nê-xi-a, tháng
9/2003), Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) được xác định là một trong 3 trụ
cột của Cộng đồng ASEAN, nhằm “đưa hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên
tầm cao mới, để các quốc gia trong khu vực sống hòa bình với nhau và với
thế giới trong một môi trường bình đẳng, dân chủ và hòa hợp”.
Khởi nguồn từ sáng kiến của In-đô-nê-xia, ASC (sau
này được đổi tên thành Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC)) là bước phát
triển cao hơn của các nỗ lực hợp tác chính trị-an ninh của ASEAN. Các
hoạt động cụ thể nhằm xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN được đề
ra trong các chương trình lớn của ASEAN như Chương trình Hành động Cộng
đồng An ninh ASEAN (ASC POA) năm 2004; Chương trình Hành động Viên-chăn
(VAP) năm 2004 và Kế hoạch tổng thể APSC 2009-2015.
Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Chính trị-An
ninh ASEAN được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN 14 năm 2009 xác
định 3 thành tố chính của APSC gồm: (1) Xây dựng một cộng đồng dựa trên
các giá trị và chuẩn mực chung; (2) Tạo dựng một khu vực gắn kết, hòa
bình và tự cường với trách nhiệm chung đối với an ninh toàn diện; (3)
Hướng tới một khu vực năng động và rộng mở với bên ngoài trong một thế
giới ngày càng liên kết và tùy thuộc. (An ninh toàn diện là một khái
niệm được sử dụng rộng rãi ở châu Á-Thái Bình Dương, được hiểu bao gồm
các mối đe dọa quân sự và phi quân sự với mỗi quốc gia).
Dưới thành tố đầu tiên của APSC, ASEAN đang đẩy mạnh
hợp tác về chính trị, hình thành và chia sẻ các chuẩn mực thể hiện trong
Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Hiệp ước về Khu vực Đông Nam Á
không có Vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), Tuyên bố về Ứng xử của các bên trên
Biển Đông (DOC), thúc đẩy hợp tác an ninh biển v.v. Để cụ thể hóa thành
tố thứ 2, ASEAN tập trung hợp tác xây dựng lòng tin, thúc đẩy đối thoại,
hiểu biết lẫn nhau nhằm ngăn ngừa xung đột, thúc đẩy hợp tác về quốc
phòng-an ninh, nghiên cứu các biện pháp giải quyết xung đột một cách hòa
bình và hợp tác kiến tạo hòa bình sau xung đột cũng như hợp tác trên
các lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Theo thành tố thứ 3, ASEAN tích
cực tăng cường vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực và xây dựng cộng
đồng, mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, nỗ lực phát huy vị trí
là động lực chính trong một cấu trúc khu vực mở, minh bạch và thu nạp.
Các lĩnh vực hợp tác trong trụ cột Cộng đồng Chính
trị-An ninh ASEAN ngày càng được thúc đẩy và đi vào chiều sâu: hợp tác
quốc phòng được đẩy mạnh qua cơ chế Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN
(ADMM) và ADMM Mở rộng (ADMM+) với 8 Đối tác; hợp tác đảm bảo an ninh
biển được thúc đẩy theo khuôn khổ Diễn đàn Biển ASEAN (AMF) và Diễn đàn
Biển ASEAN Mở rộng (EAMF); Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về Nhân quyền
(AICHR) được thành lập theo quy định của Hiến chương và ASEAN lần đầu
tiên đã thông qua Tuyên bố về Nhân quyền (AHRD), khẳng định cam kết hợp
tác thúc đẩy và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của người dân trong khu
vực; Viện hòa bình hòa giải ASEAN (AIPR) được thành lập nhằm hỗ trợ
nghiên cứu các biện pháp về hòa bình và hòa giải trong khu vực….
Nhằm củng cố và duy trì vai trò trung tâm trong cấu
trúc khu vực đang định hình, ASEAN không ngừng mở rộng và làm sâu sắc
hơn quan hệ hợp tác toàn diện, cùng có lợi với các Đối tác, thúc đẩy và
làm phong phú các diễn đàn đối thoại và hợp tác ở khu vực do ASEAN chủ
trì như ASEAN+1, ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN
(ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) v.v., tạo
điều kiện khuyến khích các Đối tác tham gia đóng góp tích cực, xây dựng,
trên cơ sở tôn trọng các mục tiêu và nguyên tắc quan hệ mà ASEAN đã đề
ra, đối với các vấn đề liên quan đến hòa bình, ổn định và phát triển ở
khu vực cũng như hỗ trợ ASEAN tăng cường liên kết và xây dựng Cộng đồng.
3. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC):
AEC là một trong 3 trụ cột quan trọng của Cộng đồng
ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020, và
được khẳng định lại trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali II): tạo
dựng một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và cạnh tranh cao,
nơi có sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự
do hơn của các luồng vốn, phát triển kinh tế đồng đều và giảm nghèo, thu
hẹp khoảng cách chênh lệch về kinh tế-xã hội.
Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN
(2004-2010) nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020, Chương trình hành động Viên
Chăn (VAP), đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là tăng cường năng lực
cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế của ASEAN.
Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN
một bộ phận của Lộ trình xây dựng Cộng đồng 2009-2015 đã xác định các
biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện để xây dựng một thị trường chung
và cơ sở sản xuất thống nhất bao gồm: dỡ bỏ thuế quan và các hàng rào
phi thuế quan; thuận lợi hóa thương mại, hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản
phẩm (hợp chuẩn) và quy chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải
quan và xuất nhập khẩu, hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tạo thuận
lợi cho dịch vụ, đầu tư, tăng cường phát triển thị trường vốn ASEAN và
tự do lưu chuyển hơn của dòng vốn, thuận lợi hóa di chuyển thể nhân
v.v., song song với việc củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua
đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng
lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, cũng như
phát triển các kỹ năng thích hợp.
Các biện pháp nói trên đều đã và đang được các nước
thành viên ASEAN triển khai cụ thể thông qua các thỏa thuận và hiệp định
quan trọng như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp
định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ
(AFAS), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp định Đầu
tư Toàn diện ASEAN (ACIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN
(AICO), Lộ trình Hội nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN, v.v. … Thành tựu
đáng kể nhất trong xây dựng AEC tới nay là ASEAN đã cơ bản giảm được
thuế quan cho các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về từ 0-5% từ năm
2010 đối với 6 nước thành viên ban đầu và vào 2015 với 4 nước thành viên
mới, hình thành nên một thị trường mở không còn các rào cản thuế quan
đối với hàng hóa. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực
dựa trên nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN, có
bổ sung thêm hai nội dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển
vốn tự do hơn.
Nhằm xây dựng một khu vực cạnh tranh về kinh tế,
ASEAN thúc đẩy chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sở
hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại điện tử v.v. Hướng tới
mục tiêu phát triển kinh tế đồng đều, ASEAN đã thông qua và đang triển
khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED), trong đó
đáng chú ý là hỗ trợ các nước thành viên mới, khuyến khích các doanh
nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Mở rộng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu,
ASEAN đẩy mạnh triển khai các FTA với 6 đối tác lớn là Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, đồng thời tích cực đàm
phán xây dựng Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) nhằm
tạo ra một không gian kinh tế mở ở Đông Á.
4. Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN (ASCC)
Mục tiêu cơ bản của trụ cột thứ ba thể hiện trong
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Bali II) và Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng
Văn hóa-Xã hội ASEAN (ASCC) là góp phần xây dựng một Cộng đồng ASEAN
lấy con người làm trung tâm; có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình
đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia và dân tộc ASEAN bằng
cách tiến tới một bản sắc chung; xây dựng một xã hội chia sẻ, đùm bọc,
hòa thuận và rộng mở nơi mà cuộc sống, mức sống và phúc lợi của người
dân được nâng cao.
Tầm nhìn 2020 đã nêu ý tưởng về một cộng đồng khu
vực có những nhân tố sau: nhận thức rõ về các mối quan hệ lịch sử, di
sản văn hóa, gắn bó với nhau bởi bản sắc khu vực được tăng cường; gắn
kết và đùm bọc nhau về mặt xã hội, trong đó nghèo đói, suy dinh dưỡng
không còn là vấn đề lớn; gia đình, đơn vị cơ bản của xã hội, quan tâm
chăm sóc lẫn nhau, đặc biệt là trẻ em, vị thành niên, phụ nữ và người
già; những người khuyết tật được quan tâm đặc biệt; công bằng xã hội và
nền pháp trị được đề cao; không ma túy; có khả năng cạnh tranh cao; một
ASEAN ‘xanh và sạch’, có sự tham gia của nhiều hơn của người dân, tập
trung vào vấn đề phúc lợi và nhân phẩm con người.
Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN sẽ có mối quan hệ bổ
trợ chặt chẽ và tạo thuận lợi cho việc hình thành Cộng đồng Chính trị-An
ninh cũng như Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Mục tiêu xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN
được cụ thể hóa thông qua các chương trình hợp tác cụ thể như Kế hoạch
hành động Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN (ASCC POA) năm 2004, Chương
trình Hành động Viên-chăn (VAP) năm 2004 và hiện nay là Kế hoạch tổng
thể ASCC 2009-2015.
Kế hoạch Tổng thể xây dựng Cộng đồng Văn hóa-Xã hội
ASEAN gồm 6 thành tố chính: (i) Phát triển con người (ii) Phúc lợi và
bảo hiểm xã hội (iii) Các quyền và bình đẳng xã hội (iv) Đảm bảo môi
trường bền vững (v) Tạo dựng bản sắc ASEAN (vi) Thu hẹp khoảng cách phát
triển và 40 thành tố cùng với 340 biện pháp thực hiện trong giai đoạn
2009-2015 cũng như thể chế thực hiện và giám sát.
Các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Kế hoạch tổng
thể ASCC đang được thúc đẩy trên nhiều lĩnh vực và tập trung vào 6 thành
tố chính kể trên. Về phát triển nguồn nhân lực: ASEAN khuyến khích phát
triển giáo dục suốt đời và sử dụng ICT như những phương tiện thúc đẩy
nền giáo dục ASEAN và nâng cao nhận thức về ASEAN. Về phúc lợi và bảo
trợ xã hội: ASEAN tập trung hợp tác y tế ngăn ngừa và kiểm soát bệnh
dịch truyền nhiễm, HIV và AIDS, các bệnh dịch truyền nhiễm mới nổi khác;
giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực, năng lượng, xây dựng ASEAN
không có ma túy, dự phòng và ứng phó thiên tai thảm họa v.v. Về các
quyền và công bằng xã hội: ASEAN đẩy mạnh hợp tác thúc đẩy và bảo vệ
quyền của các nhóm đối tượng yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người già,
người khuyết tật, người lao động di cư v.v.; Về bảo đảm bền vững môi
trường: ASEAN tăng cường hợp tác ứng phó với các thách thức môi trường
xuyên biên giới như ô nhiễm khói mù, chất thải, bảo vệ môi trường biển,
đa dạng sinh học, ứng phó biến đổi khí hậu. Về xây dựng bản sắc ASEAN và
nâng cao ý thức cộng đồng: ASEAN chú trọng gìn giữ và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống của khu vực, thúc đẩy trao đổi văn hóa, giao
lưu nhân dân, đề cao nguyên tắc thống nhất trong đa dạng, tăng cường sự
hiểu biết và chia sẻ giữa người dân về văn hóa, lịch sử, tôn giáo và văn
minh.
5. Đẩy mạnh kết nối và thu hẹp khoảng cách phát triển
Để hỗ trợ mục tiêu xây dựng Cộng đồng, ASEAN đã
thông qua và đang tập trung triển khai Kế hoạch tổng thể về Kết nối
ASEAN, nhằm tăng cường kết nối khu vực trên cả 3 nội dung là kết nối hạ
tầng cứng (giao thông vận tải); hạ tầng mềm (thể chế) và con người,
hướng tới mở rộng kết nối ra toàn khu vực Đông Á; đồng thời tích cực
thúc đẩy các nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển trong Hiệp hội thông
qua các Chương trình công tác thực hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI).